Hoạt Động Truyền Giáo Theo Thông Điệp Redemptoris Missio

0
1140


Bình Hòa, OP.

 

Có vài vấn đề đặt lên cho thần học truyền giáo sau Công Đồng Vatican II; ví dụ như: về danh xưng,[1] về sự cần thiết,[2] về mục tiêu của việc truyền giáo,[3]… Những vấn nạn ấy không những chỉ giới hạn trong các sách báo thần học mà ảnh hưởng không nhỏ đến tâm thức của cả Giáo Hội, đặc biệt là các nhà thừa sai. Chính vì muốn đánh tan những nghi ngờ bấp bênh ấy mà nhân dịp 25 năm bế mạc Công Đồng Vatican II, 07/12/1990, Đức Gioan Phaolô II đã ban hành Thông điệp “Redemptoris Missio” (Sứ mạng của Đấng Cứu thế) nhằm khẳng định những giá trị của sứ mạng truyền giáo.

Tưởng cũng nên biết là 10 năm sau khi bế mạc Công Đồng, một văn kiện quan trọng liên quan tới việc truyền giáo đã được Đức Phaolô VI công bố ngày 8/12/1975, đó là Tông huấn “Evangelii Nuntiandi”, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới họp năm trước đó về việc loan truyền Tin Mừng cho thế giới, một đề tài nói được là bao quát hơn công cuộc truyền giáo.

Thiết tưởng nên nhắc lại một nhận xét về từ ngữ. Tiếng “truyền giáo” ở Việt ngữ được chuyển dịch từ tiếng “missio”. Thế nhưng, theo nguyên ngữ cũng như theo thần học, thì “missio” có nghĩa là sự “sai đi”, và do đó mang ý nghĩa là “sứ vụ, sứ mạng”. Họa theo Sắc lệnh “Ad Gentes” của Công Đồng Vatican II, Thông điệp “Redemptoris Missio” đặt nền tảng của vấn đề truyền giáo từ missio nguyên khởi, phát xuất từ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, tức là từ việc Chúa Cha sai Con Một mình đến thế gian, và rồi đến lượt Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần sai Hội Thánh đi loan Tin Mừng cho nhân loại. Trải qua những chuỗi sai phái như vậy, tuy về hình thức và giai đoạn có sự khác biệt, song nguồn gốc và động lực trước sau vẫn như một, tức là thông đạt tình yêu của Thiên Chúa cho con người. Thiên Chúa muốn thông ban mình cho con người, và kêu gọi con người tham dự vào việc chia sẻ hạnh phúc ấy. Khởi nguyên và tận điểm của mọi sự sai đi (hoặc truyền giáo) là tình yêu của Thiên Chúa và hạnh phúc của con người. Dựa trên kế hoạch ấy mà Đức Gioan Phaolo II lần lượt trình bày những nguyên tắc của công cuộc truyền giáo cũng như trả lời cho những vấn nạn nêu lên.

I. NHỮNG NGUYÊN TẮC CĂN BẢN

1. Thiên Chúa yêu thương con người

Nói rằng Thiên Chúa yêu thương con người và muốn cho con người chia sẻ sự sống với mình, thì cũng như quả quyết rằng Thiên Chúa muốn cho hết mọi người được cứu rỗi. Có điều đáng cho chúng ta lưu ý, là ý muốn của Thiên Chúa khác với ý muốn của chúng ta: nhiều lần ý muốn của chúng ta chỉ là ước mơ; còn Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, thì khác: ý muốn của Ngài (đồng nghĩa với tình thương) có tính cách sáng tạo. Khi Ngài đã muốn (đã yêu) thì điều muốn phải thực hiện. Nói khác đi, khi Ngài muốn cho hết mọi người được cứu rỗi, thì Ngài cũng lo liệu xếp đặt các phương thế để cho con người đặt tới cứu cánh.

2. Thiên Chúa hiện thực hóa tình yêu dành cho nhân loại

Đức Kitô được sai đến (missio) thế gian không những để loan báo cho con người biết ý định tình thương của Chúa Cha, nhưng còn thực hiện chương trình ấy nữa qua cuộc Nhập Thể, Tử Nạn và Phục Sinh. Vì vậy mà Đức Kitô trở nên Đấng Cứu Chuộc của nhân loại: Ngài là “Đường” mà tất cả chúng ta phải qua để đến với Chúa Cha. Ngài là vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa với loài người. Đến đây, Đức Gioan Phaolô II dừng lại để trả lời cho một số vấn nạn liên hệ đến sự cứu rỗi của những người ngoài Kitô giáo.

a. Đức Giêsu và Đức Kitô là một

Đức tin Công Giáo không cho phép tách rời ra một bên là Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể, và bên kia là Đức Giêsu.[4] Sự khẳng định này nhằm tới một số thuyết gần đây, coi Đức Giêsu chỉ như là một trong số những nhà lập đạo khác, tựa như Đức Phật, hay Mahomet. Theo họ, Đức Kitô hoàn vũ (Christus cosmicus) lớn hơn Đức Giêsu lịch sử; và không có gì cản trở việc Đức Kitô có thể nhập thể qua những nhân vật khác nhau. – Đối lại với những thuyết ấy, Thông điệp “Redemptoris Missio” khẳng định rằng, Đức Giêsu và Đức Kitô là một Ngôi Vị. Tuy rằng trong lịch sử cứu rỗi, có những nhân vật[5] được Thiên Chúa sai đến như là sứ giả của Ngài, làm môi giới đối với nhân loại, song vị trí của Đức Kitô có tính cách độc nhất vô nhị: Ngài là Thiên Chúa nhập thể, là nguyên nhân của ơn cứu độ.

b. Ơn cứu độ phổ quát cho mọi người

Nói rằng, Đức Kitô là trung gian duy nhất của ơn cứu độ không có nghĩa rằng, những ai không biết Đức Kitô thì sẽ không được cứu rỗi. Dựa trên số 22 của Hiến chế “Vui Mừng và Hy Vọng” của Công Đồng Vatican II, Đức Gioan Phaolô II nói rằng, những người chưa nhận biết sự điệp của Đức Kitô có thể được cứu rỗi, qua một hồng ân mà Chúa Thánh Thần ban cho họ, đưa họ tới tiếp xúc với mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô.[6] Hồng ân ấy là công hiệu của hy lễ nơi Đức Kitô, được thích ứng với hoàn cảnh thiêng liêng và vật chất của họ; nhờ đó họ có thể đáp lại lời mời của Thiên Chúa đón nhận ơn cứu rỗi.

c. Vương Quốc Thiên Chúa hiển trị

Đức Kitô được sai đến trần gian để thiết lập Nước Thiên Chúa. Ngài thực hiện sứ mạng ấy qua việc rao giảng Nước Thiên Chúa đã đến, chữa lành các bệnh tật, xua đuổi ma quỷ, tha thứ tội lỗi, phục hồi sự sống. Tuy nhiên, cao điểm của sự thiết lập Nước Thiên Chúa là việc Ngài tuân phục thánh ý Chúa Cha, trao hiến mạng sống như bảo chứng của tình yêu vô biên đối với nhân loại. Sự Phục Sinh của Đức Kitô đánh dấu giai đoạn mới của việc thiết lập Nước Thiên Chúa: tội lỗi, sự dữ và cái chết bị dẹp tan; con người lãnh nhận được ơn tha thứ và sự sống nhờ Đức Kitô. Từ nay, Nước Thiên Chúa có nền tảng trọng tâm là Đức Kitô.

Thông điệp “Redemptoris Missio” đã dành cả chương 2 để bàn về Nước Thiên Chúa, nhằm trả lời cho một số học thuyết giới hạn việc xây dựng Nước Thiên Chúa vào sự giải phóng nhân bản. Theo họ, Đức Giêsu phục vụ Nước Thiên Chúa qua việc phục vụ con người, đặc biệt là người nghèo, người bị áp chế, người sống bên lề xã hội. Giáo Hội cũng phải theo gương đó: thay vì lo giảng đạo, thì hãy dốc tâm-lực vào sự phục vụ giải phóng con người.

Đức Gioan Phaolô II đã muốn trình bày ý nghĩa của Nước Thiên Chúa trong Kinh Thánh, cách riêng sự liên hệ giữa Nước Thiên Chúa với Đức Kitô và với Hội Thánh. Nước Thiên Chúa không phải là một khái niệm mơ hồ, một ý thức hệ, song gắn chặt với thân thế, lời giảng và việc làm của Đức Kitô. Một cách cụ thể hơn, ở số 20, Thông điệp “Redemptoris Missio” xác định thế nào là phục vụ Nước Thiên Chúa. Hội Thánh phục vụ Nước Thiên Chúa qua bốn hình thức sau đây:

a/. Loan báo Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài;

b/. Thiết lập Giáo Hội địa phương, bởi vì Giáo Hội là dụng cụ của Nước Thiên Chúa;

c/. Cổ võ những giá trị của Nước Thiên Chúa;[7]

d/. Sau cùng Hội Thánh cũng phục vụ Nước Thiên Chúa khi cầu nguyện khẩn nài cho Nước Thiên Chúa mau đến trong thế gian.

3. Chúa Thánh Thần – tác nhân kiến tạo sự nối kết tình yêu

Sau khi đã trình bày những nguyên tắc của công cuộc truyền giáo trong tương quan với Chúa Cha và Đức Kitô, Thông điệp “Redemptoris Missio” thêm một chiều kích thứ ba nữa, xét tới mối liên hệ với Chúa Thánh Thần.[8] Thánh Thần là tác nhân chính của công cuộc truyền giáo. Ngài điều khiển hướng đi của Hội Thánh, thúc đẩy Hội Thánh tiến về biên cương mới, không những xét theo nghĩa là về lãnh thổ địa lý mà và cả theo nghĩa là những biên cương chủng tộc và tôn giáo nữa. Số 28 nói đến sự hiện diện phổ quát của Thánh Thần, không bị hạn chế về thời gian và không gian. Thánh Thần đã tác động ngay từ buổi khai nguyên của lịch sử nhân loại, cũng như ngày nay, Ngài tác động vượt ra ngoài những giới hạn của Giáo Hội hữu hình. Cách riêng, Đức Gioan Phaolô II bàn tới ba hình thức của sự hiện diện và tác động của Thánh Linh:

a/. Trong con tim của mỗi người;

b/. Trong các mầm giống của Chân Lý nơi các tôn giáo và các nền văn hóa;

c/. Trong những nỗ lực của con người hướng về Chân – Thiện – Mỹ, hướng về Đấng Tối Cao, cách riêng qua việc cầu nguyện.

Sự trình bày chiều kích Thánh Linh của hoạt động truyền giáo đưa tới những hệ luận rất quan trọng.

– Thứ nhất, cần phải biết nhìn nhận vai trò chủ động của Thánh Thần trong công tác truyền giáo: sự trở lại và tin nhận Đức Kitô không phải là hiệu quả của những sáng kiến tài năng của Hội Thánh mà là của ơn thánh. Do đó, Hội Thánh cần làm sao để trở nên dụng cụ bén nhạy của Chúa Thánh Thần. Thông điệp đã dành một chương để bàn về linh đạo truyền giáo,[9] nhằm để cho Thánh Thần uốn nắn nên dụng cụ thích ứng, cách riêng qua việc cầu nguyện và từ bỏ bản thân.

– Thứ hai, nếu nhìn nhận rằng, Thánh Thần không ngừng tác động trong thâm tâm của mỗi người và trong các nền văn hóa của nhân loại, thì khi mang Tin Mừng đến cho tha nhân, nhà truyền giáo phải tỏ thái độ kính cẩn biết khám phá sự hiện diện của mầm mống chân lý nơi tha nhân nữa. Nói khác đi, phải loại bỏ thái độ ngạo mạn, coi như chỉ có mình mới biết chân lý, còn ngoài ra, tất cả chỉ là sai lầm gian dối.

Tuy nhiên, một mặt khác, Thông điệp “Redemptoris Missio” cũng không tán thành những chủ trương không kém phần cực đoan. Theo đó, hoạt động truyền giáo phải giới hạn vào việc đối thoại, giúp cho các tôn giáo khác đào sâu thêm vẻ đẹp của họ, chứ không được rao giảng Đức Kitô. Ở số 29, Đức Gioan Phaolô II nói rằng, chúng ta không được phép tách rời Thánh Thần tác động trong thế gian ra một bên, và Thánh Thần của Đức Kitô ra bên khác. Chỉ có một Chúa Thánh Thần mà thôi: Thánh Thần hướng dẫn con người về với Đức Kitô, xét vì chính Thánh Thần đã tác động trong việc Nhập thể và Phục sinh của Đức Kitô, nhằm tới sự cứu rỗi của nhân loại.

Dựa trên những nguyên tắc vừa nói, nghĩa là nền tảng của công cuộc truyền giáo xét trong mối liên hệ với Ba Ngôi Thiên Chúa, Thông điệp “Redemptoris Missio” đi vào vai trò của Hội Thánh trong công cuộc này. Như đã nói trên đây, Hội Thánh đã được thiết lập và sai đi để loan báo cũng như để phục vụ kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Kitô. Việc chấp nhận Tin Mừng ấy cũng bao gồm sự gia nhập Hội Thánh, vì đã được đặt lên làm dấu chỉ và dụng cụ của sự cứu rỗi. Dĩ nhiên sự gia nhập Hội Thánh không có nghĩa như là ghi danh đăng ký vào một tổ chức xã hội, nhưng tiên vàn là sự đón nhận hồng ân mà Chúa đã ban cho con người qua Đức Kitô, và rồi cộng tác với các tín hữu khác để tuyên dương tình yêu của Chúa trước mặt nhân loại.

II. VỀ CHÍNH HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO

Từ truyền giáo trong tiếng Latin (missio) nguyên gốc có nghĩa là “sai đi”: bắt nguồn từ việc Đức Kitô được sai đến thế gian để mang tình yêu của Thiên Chúa cho con người; Tiếp đến, Hội Thánh được Đức Kitô sai đi để tiếp tục sứ mạng ấy. Nói khác đi, toàn thể Hội Thánh được sai đi, toàn thể Hội Thánh mang sứ mạng truyền giáo. Thế thì có thể nói được tất cả các hoạt động của Hội Thánh đều là truyền giáo hay không? Từ việc giảng dạy đạo lý cho tới việc săn sóc người tàn tật, bất cứ việc gì cũng có thể coi là công tác truyền giáo hay chỉ có vài công tác đặc định? Sự phân biệt những vùng truyền giáo trong thế giới có còn lý do tồn tại nữa không?

1. Xác định lãnh vực truyền giáo

Tuy rằng tất cả Hội Thánh lãnh nhận một missio (sứ mạng) từ Đức Kitô, đó là phục vụ nước Chúa, nhưng sứ mạng phổ quát ấy có thể mang những hình thức khác biệt tùy theo những trạng thái khác nhau của đời sống đức tin: có những nơi hay những người hoặc chưa bao giờ nghe giảng Phúc Âm, hoặc đã theo đạo rồi nhưng không còn giữ đạo nữa. Vì vậy, Thông điệp “Redemptoris Missio” ở số 33 phân biệt ba hình thức:

a/. “Missio ad gentes”, mà chúng ta có thể dịch nghĩa là truyền giáo, dành cho những ai chưa phải là Kitô hữu;

b/. Hoạt động mục vụ, dành cho những người đã theo đạo;

c/. Tái rao giảng Tin Mừng, hướng tới những người đã theo đạo nhưng không còn tin hay giữ đạo nữa. Điều nên biết là trong hạng thứ nhất, thông điệp dùng đến ba tiêu chuẩn để xác định hoạt động truyền giáo:

+ Tiêu chuẩn địa lý, nghĩa là những vùng hay những dân mà Phúc Âm chưa tỏa đến.

+ Tiêu chuẩn xã hội: những môi trường xã hội, những lớp người chưa được nghe Phúc Âm, tựa như những người tị nạn, những lớp người sống bên lề xã hội;

+ Tiêu chuẩn thứ ba nhắm cách riêng đến các lãnh vực văn hóa, tựa như: các phong trào tranh đấu nhân quyền, ngành điện ảnh văn nghệ.

Khi phối hợp lại ba tiêu chuẩn khác nhau, ta có thể nhận thấy rằng, một quốc gia hay thậm chí một Giáo phận có thể được xếp vào cả ba trạng thái sống đức tin. Tỉ dụ như tại Roma, tuy đại đa số các hoạt động thuộc vào hoạt động mục vụ, nhưng cũng cần thúc đẩy công tác “tái truyền giảng Tin Mừng” cho biết bao nhiêu tầng lớp chỉ còn mang danh là người Công Giáo chứ chẳng còn giữ đạo nữa; và đồng thời cũng phải xúc tiến việc truyền giáo cho những lớp người Phi châu tị nạn chưa có đạo. Đối lại, ta cũng có thể tưởng tượng Giáo phận Xuân Lộc tại Việt Nam, bên cạnh những hoạt động mục vụ hay truyền giáo cổ truyền, cũng cần phải nghĩ tới việc “tái truyền giảng Tin Mừng” cho những lớp người mang tiếng là đạo giòng, đạo gốc, nhưng chỉ có đạo ngoài vỏ.

2. Động lực và mục tiêu của việc truyền giáo

Nói khác đi: Tại sao phải truyền giáo? Truyền giáo để làm gì?

a. Tại sao phải truyền giáo?

Trong quá khứ, có lẽ đã có người trả lời rằng: bởi vì chỉ có đạo Công Giáo mới là đạo thật, còn các đạo khác dạy điều dối trá sai lầm, thờ lạy bụt thần ma quỷ! Câu trả lời ấy không còn đứng vững khi mà người ta nhận thấy rằng không phải các tôn giáo đều dạy điều quấy quá. Thông điệp “Redemptoris Missio” số 11 đã trình bày lý do một cách khác.

Ngoài mệnh lệnh của Đức Kitô sai các môn đệ đi khắp thế giới giảng đạo, Đức Gioan Phaolô II đặt nền tảng của việc truyền giáo trên quyền lợi cao quý nhất của con người, đó là quyền của “con người được biết sự thật”. Hội Thánh cần phải tôn trọng quyền đó, nghĩa là phải nói cho con người biết sự thật về phẩm giá cao quý của mình. Phẩm giá ấy hệ tại việc Thiên Chúa yêu thương con người, mời gọi con người thông dự vào sự sống của Ngài, nhờ hồng ân cứu rỗi qua Đức Kitô. Hoạt động truyền giáo, nhằm phục vụ chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, đồng thời cũng nhằm phục vụ con người: Chúng ta muốn thông đạt cho tha nhân hồng ân đức tin quý báu mà chúng ta đã lãnh nhận, và hồng ân ấy liên hệ tới hạnh phúc của mọi người.

b. Truyền giáo để làm gì?

Vào hồi đầu thế kỷ, đã có những cuộc tranh luận giữa những khuynh hướng thần học truyền giáo: Có người thì đặt nặng mục tiêu là việc trở lại đạo; người khác nhấn mạnh đến việc thành lập Giáo Hội địa phương. Thông điệp “Redemptoris Missio” trình bày ba mục tiêu của việc truyền giáo, nằm trong ý niệm thần học về Nước Thiên Chúa. Thực vậy, việc rao giảng Nước Thiên Chúa nhằm tới sự cải hoán, bao gồm ba chiều kích:

– Thứ nhất, tin và đón nhận ơn cứu rỗi;

– Trở thành môn đệ của Đức Kitô, trở nên phần tử của Hội Thánh;

– Biến cải tâm thức cá nhân hay những cơ chế tội lỗi, trái ngược với Tin Mừng, ngược với nhân phẩm, dù đó là những bất công xã hội hay là những cảnh nghèo đói, bệnh tật, dốt nát.

Một khi đã xác định nguồn gốc và mục tiêu của công cuộc truyền giáo như vậy, ta có thể hiểu rằng, việc truyền giáo không giới hạn vào việc giảng đạo và chấm dứt với việc lôi cuốn lương dân trở lại đạo. Chương 5 của Thông điệp “Redemptoris Missio” đã mô tả những hình thức khác nhau của công tác truyền giáo, đi từ những cử chỉ, thái độ đơn sơ,[10] cho tới những kế hoạch phát triển và thăng tiến con người, lẫn việc rao giảng Phúc Âm, xây dựng Giáo Hội địa phương trong khung cảnh văn hóa dân tộc. Chúng tôi xin ghi nhận ba điểm sau đây:

– Việc truyền giáo và đối thoại với các tôn giáo;

– Việc truyền giáo và thăng tiến;

– Việc truyền giáo với văn hóa địa phương.

3. Vài vấn đề hệ luận: Truyền giáo và đối thoại với các tôn giáo

Ai ai cũng biết thái độ của Giáo Hội Công Giáo đối với các tôn giáo đã thay đổi nhiều từ Công Đồng Vatican II. Trước đây, người ta coi các tôn giáo ấy như là đạo thờ quấy; những người theo các đạo ấy sẽ xuống hỏa ngục hết. Hậu nhiên, việc truyền giáo không thiếu những lần đi kèm với sự đả phá các tôn giáo. Thế nhưng, Công Đồng Vatican II đã thay đổi chiều hướng: Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận những giá trị của các tôn giáo, cũng như nhìn nhận rằng những người ăn ngay ở lành cũng có thể được rỗi linh hồn. Dĩ nhiên, một câu hỏi sớm muộn gì cũng được đặt ra: thế thì cần chi phải truyền giáo nữa? Thời đại truyền giáo đã qua rồi, bây giờ đến lúc đối thoại: đạo ai người nấy giữ!

Thông điệp “Redemptoris Missio” đã trả lời những vấn nạn ấy trong số 55-57. Vài tháng sau đó, “Bộ Truyền Giáo” cùng với “Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Sự Đối Thoại Liên Tôn” đã xuất bản một tài liệu mang tựa đề: “Những suy tư và định hướng về việc đối thoại liên tôn và sự loan báo Phúc Âm”. Cả hai văn kiện muốn giải thích mối liên hệ giữa sự đối thoại liên tôn với việc truyền giáo: sự đối thoại không thay thế cho việc truyền giáo cũng không thể coi như một chiến thuật để truyền giáo. Chúng ta hãy xét tới những nền tảng, hình thức của sự đối thoại; rồi sau đó, tương quan với việc truyền giáo.

a. Xét về nền tảng

Khi xét về khía cạnh nền tảng hay sự cần thiết của sự đối thoại, ta có thể đưa ra 4 khía cạnh (hay chiều kích):

– Nhân bản: sự tôn trọng con người; sự đối thoại là con đường dẫn tới sự khám phá sự thật. Sự thật, cách riêng sự thật về tôn giáo, chỉ có thể chấp thuận cách tự do nhờ việc nhìn nhận ra lý lẽ, chứ không thể áp đặt cưỡng chế.

– Xã hội. Sự đối thoại là cách thế cần thiết để duy trì sự sống chung trong cộng đồng xã hội; việc thiếu đối thoại và hiểu biết nhau sớm muộn gì cũng sẽ đưa tới đố kị tranh chấp giữa các tín ngưỡng.

– Thần học. Mỗi người là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái của Chúa. Chính Đức Kitô đã để lại gương sáng cho chúng ta: Ngài đi gặp gỡ, giải thích trình bày chân lý với thái độ nhã nhặn kiên nhẫn.

– Cứu rỗi. Giáo Hội nhìn nhận những giá trị của đạo lý và tinh thần nơi các tôn giáo, coi đó như phản ảnh của Đức Kitô Lời chân lý, và tác động của Chúa Thánh Linh. Sự đối thoại với các tôn giáo giúp Giáo Hội khám phá thêm sự sung mãn của chân lý, cũng như tự kiểm thảo, sửa sai những khuyết điểm thiếu sót do điều kiện con người của mình.

Hiểu như vậy, sự đối thoại không chủ ý vạch lá tìm sâu, bươi móc những khuyết điểm của người khác; nhưng là nhằm tìm kiếm sự thật. Người kitô hữu, tuy thâm tín gắn bó với đức tin của mình, nhưng luôn mở rộng tiến đến chân lý sung mãn, nhất là chân lý về tình thương biểu lộ qua sự tôn trọng tha nhân.

b. Xét về hình thức

Thường mỗi khi nói tới đối thoại, chúng ta liên tưởng tới hội nghị bàn vuông với bàn tròn. Thực ra có tới bốn hình thức đối thoại:

– Đối thoại đời sống, nghĩa là qua những mối tương giao hàng ngày, giữa bà con lối xóm, qua những công việc giúp đỡ nhau, tương thân tương trợ, và nhất là qua thái độ kính trọng lẫn nhau.

– Đối thoại công tác, qua những hoạt động của các phần tử thuộc những tôn giáo khác nhau, nhằm tới sự thăng tiến con người, công bằng xã hội.

– Đối thoại đạo lý, qua những cuộc trao đổi, đối chiếu quan điểm về triết học, luân lý, thần học.

– Đối thoại về cảm nghiệm tâm linh, về cách thức cầu nguyện tu đức.

Dĩ nhiên, không phải bất cứ lúc nào và người nào cũng có thể thực hiện tất cả bốn hình thức nói trên. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng ai ai cũng có dịp để thực hành sự đối thoại đời sống.

c. Tương quan giữa đối thoại và truyền giáo

Sự đối thoại không thay thế sự truyền giáo, nhưng là một hình thức của hoạt động truyền giáo: hoạt động truyền giáo nằm trong kế hoạch đối thoại cứu rỗi của Thiên Chúa với con người, nhằm giúp con người đáp lại lời mời gọi của Ngài qua đức tin và sự cải hoán. Dĩ nhiên, nhà truyền giáo mang cũng một tâm tình khi đối thoại cũng như khi truyền giáo, đó là: lòng gắn bó với Đức Kitô (ước ao cho Ngài được biết và yêu mến) cũng như lòng yêu thương với tha nhân (ước ao cho họ được hạnh phúc).

 

 


[1] Phải hiểu truyền giáo như thế nào? Tại sao phải bàn tính chuyện truyền giáo ở Á châu, Phi châu, đang khi tại Âu châu số người giữ đạo càng ngày càng giảm sụt đi?

[2] Cần chi phải đi truyền giáo nữa, xét vì người nào ăn ngay ở lành thì cũng có thể được rỗi linh hồn? Các tôn giáo đều tốt cả?

[3] Nhằm tới phần rỗi của linh hồn ở đời sau, hay nhằm tới cả sự thăng tiến giải phóng toàn diện con người kể cả ở đời này nữa?

[4] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Thông điệp “Redemptoris Missio”, số 6

[5] Ví dụ như các ngôn sứ ở Israel

[6] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Thông điệp “Redemptoris Missio”, số 10

[7] Ví dụ như: Đối thoại; thăng tiến con người; dấn thân xây dựng công lý và hòa bình; giáo dục và săn sóc người đau yếu bệnh tật; giúp đỡ người nghèo;…

[8] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Thông điệp “Redemptoris Missio”, chương 3

[9] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, Thông điệp “Redemptoris Missio”, chương 8

[10] Ví dụ như: Sự thông cảm, giúp đỡ người nghèo, người bệnh, người cùng tận trong xã hội, người bị bỏ rơi, người bị gạt ra bên ngoài xã hội,…