Đức Maria: Mẹ Của Lòng Thương Xót

0
1996


LÒNG THƯƠNG XÓT

YẾU TÍNH CỦA TIN MỪNG VÀ CHÌA KHÓA DẪN VÀO ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU

Tác giả: Hồng Y Walter Kasper

Chuyển ngữ: Vinc. Vũ Văn An

***

Đức Hồng Y Walter Kasper

nguyên Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng đặc trách Hiệp Nhất Kitô Giáo

***

CHƯƠNG I: LÒNG THƯƠNG XÓT – CHỦ ĐỀ BỊ LÃNG QUÊN

CHƯƠNG II: NHỮNG CHỦ TRƯƠNG XẤP XỈ

CHƯƠNG III: SỨ ĐIỆP CỦA CỰU ƯỚC

CHƯƠNG IV: SỨ ĐIỆP ĐỨC GIÊSU VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

CHƯƠNG V: NHỮNG SUY NGHĨ VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA “HỆ THỐNG”

CHƯƠNG VI: PHÚC THAY AI CÓ LÒNG THƯƠNG XÓT

CHƯƠNG VII: GIÁO HỘI ĐƯỢC CÂN ĐO BẰNG LÒNG THƯƠNG XÓT

CHƯƠNG VIII: HƯỚNG VỀ NÊN VĂN HÓA THƯƠNG XÓT

***

CHƯƠNG IX:

ĐỨC MARIA: MẸ CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

 

 

I. ĐỨC MARIA TRONG CÁC TIN MỪNG

Sách Thánh và Giáo Hội không chỉ nói một cách trừu tượng và lý thuyết về lòng thương xót của Thiên Chúa; thần học của Sách Thánh cũng như thần học của các giáo phụ, là nền thần học bằng hình ảnh. Nơi con người của Đức Maria, các nền thần học này trình bầy với ta một hình ảnh cụ thể, đúng ra, một hình ảnh phản chiếu lòng thương xót của Thiên Chúa và là một nguyên mẫu cho lòng thương xót nhân bản và Kitô Giáo. Đức Maria là một loại hình (type) của Giáo Hội và, do đó, cũng là loại hình của lòng thương xót Kitô Giáo.[1] Xác tín này bén rễ sâu xa vào ý thức tôn giáo của Giáo Hội từ những thế kỷ đầu tiên cho tới tận thời nay trong hai truyền thống Công Giáo và Chính Thống Giáo. Càng ngày, xác tín này càng nhận được thêm chỗ đứng lớn hơn trong ý thức và trái tim của nhiều Kitô hữu Tin Lành.[2]

Tất nhiên, người ta có thể và chắc chắn phải phê phán khá nhiều mưu toan nhằm cường điệu hóa vị thế của Đức Maria, một vị thế cần được lượng giá bằng cách lấy chứng từ của Sách Thánh về Chúa Giêsu Kitô làm tiêu chuẩn: Người là nền tảng một lần mãi mãi và là tâm điểm vĩnh cửu của đức tin Kitô giáo. Tuy nhiên, người ta cũng phải tra vấn chủ nghĩa tối thiểu (minimalism) về Đức Mẹ. Chủ nghĩa này chuyên nhỏ mọn, ngạo mạn và thiển cận gạt qua một bên các chứng cớ của rất nhiều Kitô hữu thuộc mọi thế kỷ, trong những lúc khó khăn bên trong lẫn bên ngoài, đã kêu cầu Mẹ Thiên Chúa như Mẹ của lòng thương xót và đã cảm nhận được sự phù giúp và an ủi của ngài; nó coi những điều này chỉ là các cảm xúc đạo đức dạt dào, do một lòng tôn kính Thánh Mẫu vượt quá giới hạn. Dù sao, người ta phải thừa nhận điều này: Đức Maria quả có xuất hiện trong các Tin Mừng và, thực sự, chiếm một vị trí nổi bật.

Có hai bản văn trong Tân Ước tạo nền vững chắc cho linh đạo Thánh Mẫu: cảnh truyền tin ở đầu Tin Mừng (Lc 1:26-38) và cảnh ở cuối cùng, trong đó, Đức Maria đứng dưới chân thập giá (Ga 19:26tt). Cảnh vừa rồi trong Tin Mừng Gioan nhắc ta trở lại với trình thuật về tiệc cưới ở Cana diễn ra ở đầu thừa tác vụ của Chúa Giêsu (Ga 2:1-12). Do đó, các cảnh liên hệ tới khuôn khổ Thánh Mẫu Học, dù có xét một cách hời hợt đi nữa, cũng đã dành cho Đức Maria một vị thế nổi bật trong lịch sử cứu rỗi. Khi làm thế, số ít dòng nói về Đức Maria trong Sách Thánh cũng đủ cho thấy rõ ngài có một vai trò quan trọng và một ý nghĩa độc đáo trong lịch sử Thiên Chúa xử sự với con người tử sinh chúng ta.

Giống như toàn bộ khúc tiền sử học trước khi Chúa Giêsu xuất hiện công khai, cảnh truyền tin ở đầu Tin Mừng nói lên một số vấn đề có tính lịch sử và phê bình văn chương. Điều cần nói trong ngữ cảnh này đã được đề cập rồi.[3] Điều rõ ràng là một ý nghĩa thần học quan trọng đã được tích lũy lên khúc tiền sử học này trong quá trình thai nghén ra tin mừng của Thánh Luca. Trong khúc tiền sử học này, mọi chủ đề quán xuyến quan trọng của tin mừng đều đã được khai phá khiến nó giống như một khúc nhạc dạo đầu. Do đó, trong Kinh Ngợi Khen, Đức Maria đã tóm lược toàn bộ lịch sử cứu độ và mô tả lịch sử này như một câu truyện về lòng thương xót của Thiên Chúa. “Lòng thương xót của Người… kéo dài hết đời này qua đời nọ” (Lc 1:50). Với việc chọn ngài và kêu gọi ngài trở thành Mẹ Đấng Cứu Chuộc, lịch sử này đã bước vào giai đoạn có tính quyết định dứt khoát và cuối cùng. Trong lòng thương xót vô biên của Người, đây là lúc Thiên Chúa đưa ra cố gắng cuối cùng, dứt khoát, và chung kết để cứu dân Người và cứu nhân loại.

Đức Maria được chọn hợp tác vào công trình cứu chuộc vĩ đại này. Ngài rất “đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Điều này có nghĩa: tự ngài, ngài tuyệt đối không là gì cả, nhưng chỉ nhờ ơn thánh, ngài là mọi sự. Ngài chỉ là “nữ tỳ của Chúa” (Lc 1:38). Mọi vinh quang không thuộc về ngài, mà chỉ thuộc một mình Thiên Chúa mà thôi, Đấng mà không điều gì là bất khả đối với Người (Lc 1:37tt). Bởi thế, ngài cất lời ca: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1:46-47,49).

Ngài hoàn toàn là chiếc bình và là dụng cụ khiêm nhường của lòng Thiên Chúa thương xót. Martin Luther đã rất thông minh khi làm nổi bật điểm này trong bài giải thích Kinh Ngợi Khen.[4] Đối với ông, Đức Maria không là gì khác hơn là nguyên mẫu của sola gratia, “nhờ ơn thánh mà thôi”.

Vì Đức Maria chỉ hiện hữu nhờ ơn thánh mà thôi, nên ngài cũng sống “nhờ ơn thánh mà thôi”. Ngài là một dụng cụ của lòng Thiên Chúa thương xót qua lời “xin vâng” đầy trung thành mà ngài đưa ra để trả lời sứ điệp không tài nào hiểu nổi của Thiên Thần, một sứ điệp thoạt đầu gây ngạc nhiên và áp đảo ngài. Với lời “xin vâng” của ngài, Đức Maria tự định nghĩa ngài là nữ tỳ, xét theo yếu tính, là nô bộc (δουλος) của Chúa. Với chữ này, ngài nói lên cả sự sẵn sàng có đó một cách toàn diện, hoàn toàn thụ động cũng như sự sẵn sàng tích cực hợp tác vào công trình cứu độ. Ngài dành cho Chúa nơi để thực hiện phép lạ của Người.[5] Ngay chữ “xin vâng” đối với điều con người không có khả năng tưởng tượng này, ngài cũng chỉ nói được trong tư cách một người đã được Thiên Chúa chúc phúc.

Nhờ chữ “xin vâng” đầy vâng lời này, Đức Maria đã làm cho việc Thiên Chúa bước vào trần gian thành khả hữu. Nhờ thế, ngài trở thành Eva mới. Trong khi Eva thứ nhất đem đau đớn và đau khổ tới cho nhân loại vì sự bất tuân của bà, thì Đức Maria, nhờ đức vâng lời trung thành thay cho nhân loại của ngài,[6] đã cởi bỏ được nút thắt bất tuân mà Eva đã trói. Nhờ thế, ngài đã trở nên mẹ của mọi người sống.[7] Nhờ lời xin vâng đầy vâng phục của ngài, Đức Maria đã trở thành nữ tỳ được Thiên Chúa chọn và chúc phúc để làm đầy tớ của lòng thương xót của Người. Thực vậy, sự kiện theo đó, vì công trình thương xót mà chỉ có Người mới làm cho khả hữu, Người đã chọn và nhân từ làm cho ngài, một hữu thể nhân bản và là một phụ nữ đơn sơ, có khả năng trở thành dụng cụ của lòng thương xót của Người, nguyên sự kiện này đã đủ nói lên việc lòng Chúa thương xót vuợt xa mọi mong ước và đòi hỏi của con người.

Trong việc nhân từ chọn Đức Maria và trong lời “xin vâng” đầy trung thành của ngài, một lời đã khai quang ra một chỗ để Thiên Chúa bước vào thế gian và làm ngài trở thành người cưu mang Chúa Kitô, hòm bia của giao ước mới cũng như đền thờ của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội đã trở thành thực tại trong Đức Maria. Ngài tóm lược trong ngài lịch sử dân Cựu Ước của Thiên Chúa và, cùng một lúc, ngài là tế bào nguyên khởi của dân Tân Ước của Thiên Chúa. Ngài là thế trước khi các tông đồ được kêu gọi và bước vào kế hoạch. Ngài, đại biểu của những con người bé mọn và không tiếng nói trong lãnh thổ, “người đàn bà của nhân dân” như ngài vốn được gọi trong bài thánh ca của Giáo Hội,[8] ngài là Giáo Hội vì lòng thương xót tinh tuyền của Thiên Chúa, ngay trước khi đặt nền cho điều sau đó trở thành Giáo Hội có cơ cấu phẩm trật. Ngay trước việc đó, ngài đã tượng trưng cho Giáo Hội ngay trong chính bản ngã thâm sâu nhất của ngài, trong tư cách một người sống hoàn toàn nhờ ơn thương xót của Thiên Chúa và là người được chọn làm dụng cụ sẵn sàng được sử dụng của Người. Dưới góc độ địa vị ưu thế của Đức Maria, sẽ là một sự đánh lừa có tính ý thức hệ khi nói rằng Giáo Hội do nam giới thống trị đã tạo ra hình ảnh người đàn bà bị áp chế.[9] Ngược lại mới đúng. Thánh Mẫu Học là lời phê bình triệt để nhất xưa nay về phương diện thần học đối với hình ảnh coi Giáo Hội hoàn toàn là của nam giới.

Đức Maria cũng phải theo con đường của người hành hương đức tin. Trong đời ngài, như Tin Mừng đã tường trình, không hề có những điều lạ thường mà các tin mừng ngụy thư và các dã sử đạo hạnh muốn tô vẽ. Ngược hẳn lại, Đức Maria, người đàn bà của nhân dân, đã phải gánh chịu và sống thoát nhiều khó khăn và gian khổ: sinh con trong một chỗ trú ẩn cấp cứu; trốn qua Ai Cập; đi tìm con; bối rối về cuộc sống công khai của con trai, Người mà ngài muốn giữ ở nhà với gia đình; và cuối cùng, can đảm chịu đựng dưới chân thập giá của con trai. Ngài không hề được tha bất cứ điều gì.

Đức Maria chịu đựng cả đêm đen nhất của thập giá với con trai mình. Ngài đã không tránh né nó cũng không trốn chạy nó. Người ta minh nhiên nói rằng “Ngài đứng đó”, “Stabat mater iuxta crucem (Mẹ Người đứng gần bên thập giá)” (Ga 19:25). Cuối cùng, theo rất nhiều trình bầy nghệ thuật kiểu Pietà, ngài ôm thân xác tả tơi của đứa con trai đã chết vào lòng, một trải nghiệm đau buồn sầu não hơn hết có thể giáng xuống một bà mẹ. Bởi thế, trong Kinh Ngợi Khen, Đức Maria không chỉ dự ứng phúc thật của người nghèo, người sầu khổ và người bị bách hại của Bài Giảng Trên Núi (Mt 5:2-12; Lc 6:20-26); chính ngài cũng đã trải qua các cảm nghiệm này.

Cuối Tin Mừng thứ tư, chiếc vòng đã đóng lại. Đức Maria, người đứng ở khởi đầu câu truyện cứu rỗi của Tân Ước, nay đảm nhiệm một vị trí quan trọng ở đỉnh điểm của nó. Vì từ thập giá, Chúa Giêsu trao phó Đức Maria cho Gioan làm mẹ của ông, và ngược lại, đã trao phó môn đệ Gioan của mình cho Đức Maria làm con của ngài (Ga 19:26tt). Một lần nữa, cảnh này mang đầy ý nghĩa. Thánh Gioan là môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến (Ga 19:26); trong Tin Mừng thứ tư, ngài đóng vai nguyên mẫu người môn đệ của Chúa Giêsu. Điều này có nghĩa, nơi thánh Gioan, Chúa Giêsu trao phó mọi môn đệ của Người cho Đức Maria làm con và, ngược lại, Người trao phó Đức Maria cho mọi môn đệ của Người làm mẹ.[10] Ta có thể hiểu những lời lẽ này của Chúa Giêsu như di chúc và giao ước cuối cùng của Người. Khi làm như thế, Chúa Giêsu đã nói một điều được coi là dứt khoát và có tính trói buộc đối với tương lai Giáo Hội.[11]

Tốt hơn, ta nên đọc chính các lời lẽ trong Tin Mừng thứ tư. Tin Mừng này viết rằng từ lúc đó, Thánh Gioan đem Đức Mẹ về với mình. Nói chính xác hơn, ta phải dịch câu này như sau: ngài lấy Đức Mẹ “làm của chính ngài” (εἰς τὰ ἴδια). Thánh Augustin đã suy nghĩ rất lung về ý nghĩa của cụm từ “làm của chính ngài” này. Theo ngài, nó không có nghĩa Thánh Gioan lấy Đức Mẹ “làm của sở hữu của ngài”; đúng hơn, nó có nghĩa: “ngài đem Đức Mẹ vào hoạt động của ngài”.[12] Vì người ta cho rằng Thánh Gioan là môn đệ sẽ còn hiện hữu cho tới khi Chúa Kitô tái lâm (Ga 21:22), nên Đức Maria, do đó, cũng được gia nhập vào sự “còn hiện hữu” của Thánh Gioan và vào sự tồn tại của chứng từ ngài. Cho nên, Đức Maria vĩnh viễn thuộc về tin mừng lòng thương xót của Thiên Chúa; ngài vĩnh viễn là chứng nhân và dụng cụ của lòng Chúa thương xót.

II. ĐỨC MARIA TRONG ĐỨC TIN CỦA GIÁO HỘI

Một số rất hiếm các lời phát biểu trong Sách Thánh về Đức Maria, nhưng là những lời phát biểu rất có giá trị, đã nhập sâu vào tâm khảm các tín hữu mọi thời và tìm đựợc nhiều vang dội sâu sắc trong nền linh đạo Kitô Giáo của mọi thế kỷ. Chính Đức Maria đã tiên đoán về ngài rằng “từ nay, muôn thế hệ sẽ khen tôi là người có phúc” (Lc 1:48). Một truyền thống sống động và phong phú tiếp diễn tới tận ngày nay đã được khai triển từ các chứng từ này của Tân Ước.

Nguồn tin cậy quan trọng nhất của tín điều truyền thống đầy sống động này là Công Đồng Epheso (năm 431), tức công đồng đã tuyên xưng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa (θεοτόκος, theotokos).[13] Khi tuyên xưng như thế, điều quan trọng cần ghi nhớ là cuộc đấu tranh liên quan tới tước hiệu này, một cuộc đấu tranh chủ yếu diễn ra giữa Nestorius và Thánh Cyrillus thành Alexandria, là một cuộc tranh luận không phải Thánh Mẫu học mà là Kitô học. Nó xử lý vấn đề Chúa Giêsu có là Con Thiên Chúa trên thực tế và trong ngôi vị (hypostasis) của Người hay không. Như thế, ngay từ đầu, truyền thống Thánh Mẫu học không phải là một điều xa lạ, phát triển ở bên ngoài Kitô học; mà đúng hơn, ngay từ đầu, nó đã hiện diện trong tương quan với Kitô học và đặt căn bản trên nền tảng này. Chỉ với cách này, truyền thống Thánh Mẫu học mới mang lại và tiếp tục mang lại ích lợi cứu rỗi và thiêng liêng mà thôi.

Trên căn bản này, nhiều lời cầu nguyện, nhiều thánh thi và bài ca trong lịch sử Kitô Giáo đã liên tục tiếp nối các lời phát biểu trong Tân Ước, giải thích chúng theo linh đạo, và làm cho chúng sinh hoa kết trái. Quan trọng nhất là các chứng từ của phụng vụ. Bên cạnh chúng, còn có man vàn các bài giảng và khảo luận, ngay từ thời các giáo phụ. Việc giải thích Sách Thánh theo linh đạo này được tìm thấy trong mọi truyền thống của Giáo Hội trong thiên niên kỷ thứ nhất; cả các truyền thống Hy Lạp lẫn truyền thống Latin, truyền thống Coptic lẫn truyền thống Syria và Armenia, và truyền thống Latin Tây Phương.[14] Nó để lại nhiều vết tích đáng lưu ý cả trong truyền thống ca ngợi Đức Maria của Các Nhà Cải Cách thế kỷ XVI.

Điều trên đã được phát biểu trong lời kinh Thánh Mẫu xưa nhất, phát xuất khoảng năm 300 và được truyền bá sâu rộng: “Chúng con trông cậy rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời”. Khởi nguyên, nó được đọc như thế này: “Lạy Mẹ Chúa Trời, chúng con chạy đến lòng thương xót của Mẹ”.[15] Chúng ta sẽ tìm thấy cùng một thái độ đầy tin tưởng này trong nhiều lời cầu nguyện sau đó. Ta có thể nghĩ tới kinh Ave Maris Stella (Kính Chào Ngôi Sao Biển) mà trong thế kỷ XIX, người ta quen đọc là “Hỡi Ngôi Sao Biển, chúng con xin kính chào Mẹ. Xin Mẹ hãy tỏ ra Mẹ là một người mẹ, để Con Mẹ nhân từ nghe lời cầu xin của con cái mẹ qua Mẹ”.[16] Trong kinh Salve Regina (Lạy Nữ Vương), một trong các kinh Thánh Mẫu quen thuộc nhất, ta cầu cùng Đức Maria như “Mẹ nhân lành (Mater misericordiae= Mẹ thương xót)” và ngỏ cùng ngài: “xin ghé mắt thương (misericordes oculos) xem chúng con”. Điệp xướng Thánh Mẫu từ Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, Alma Redemptoris Mater (Mẹ Chí Thánh Của Chúa Cứu Thế), cũng đã kết thúc bằng lời kêu xin peccatorum miserere (xin thương xót những người tội lỗi). Trong kinh cầu Đức Mẹ (Loresto; nguyên phát xuất từ Giáo Hội Đông Phương thế kỷ XII), chúng ta cũng kêu cầu Đức Maria như “Đức Nữ có lòng khoan nhân” (virgo clemens), “cứu kẻ liệt kẻ khốn”, “bầu chữa kẻ có tội”, “yên ủi kẻ âu lo”, “phù hộ các giáo hữu”. Ngài được kêu cầu như đấng hộ giúp trong moị cơn sầu khổ, không chỉ để đáp ứng các hành vi thất thường của thiên nhiên, đói kém, bệnh dịch, mưa bão, mà còn cả trong những khốn khó của chiến tranh và chống những nhà cai trị bạo tàn.

Ngay trong thế kỷ thứ hai, Thánh Iréne thành Lyon, một giáo phụ vĩ đại, đã tóm tắt khi ngài mô tả Đức Maria như Đấng Gỡ Nút, tháo gỡ chiếc nút mà Eva từng thắt vào cổ nhân loại. Như thế, Đức Maria đã trở thành đấng gỡ nút cho nhiều Kitô hữu.[17] Ngài đã giúp họ gỡ những nút thắt đủ loại trong cuộc sống bản thân của họ, trong các liên hệ nhân bản của họ, trong linh hồn họ và không ít các nút thắt do những rối rắm của tội lỗi và mặc cảm tội lệ gây ra.

Đôi khi, lòng đạo đức này phát sinh nhiều phó sản rất lạ, như mô tả và hình dung Đức Maria như “Đức Bà của những kẻ vô lại”, tức như người về phe với các sai phạm và người tội lỗi, trộm cướp và ngoại tình, và được coi gần như đồng loã với đủ hạng người này.Việc hình dung này không phải là biểu thức của một tính tầm phào phù phiếm nào đó, mà thực sự là biểu thức của một cái hiểu vững chắc về đức tin, cho thấy có lúc, phạm trù thương xót đã bị hiểu quá rộng.[18]

Điều được thốt ra thành lời trong các kinh nguyện suốt trong các thế kỷ qua cũng đã được phát biểu qua nhiều cách khác trong các nghệ thuật tạo hình và trình diễn, trên hết trong các bức tranh hành hương và ảnh đạo [Gnadenbilder][19] về Đức Maria.[20] Từ thế kỷ thứ VII tới thế kỷ thứ IX, trong các tranh họa của Syria về Đấng Eleusa, ta tìm thấy Đấng Dịu Hiền: tức Đức Maria đang ôm và vuốt ve Chúa Hài Đồng trong lòng mình. Nổi tiếng nhất trong các tranh vẽ này là Đức Trinh Nữ của Vladimir, phát xuất vào thế kỷ XII ở Constantinople và hiện nay đang được lưu giữ ở Phòng Trưng Bày Tretyakov tại Moscow. Ở Tây Phương, các bức sao lại được tìm thấy tại Nhà Thờ Đức Bà Đầy Ơn Thánh ở Cambrai, tại Nhà Thờ Đức Bà Carmelo (Rome, St. Maria in Transpontina), và trong bức tranh vẽ Đức Mẹ Cứu Giúp của Lucas Cranach. Một bức ảnh nổi tiếng khác, mà truyền thuyết nói là của Thánh Sử Luca, nhưng hiện được định niên biểu vào thế kỷ XIII, đang được tôn kính tại Nhà Thờ Đức Bà Cả ở Roma dưới danh hiệu Salus Populi Romani (Đức Bà Cứu Giúp Dân Roma). Một bản sao hiện được lưu trữ tại Nhà Thờ Đồng Chánh Tòa [21] Thánh Eberhard ở Stuttgart, nơi người ta gọi ngài là Mẹ An Ủi. Cuối cùng, cũng phải nhắc đến bức ảnh nhân hậu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp vẽ theo nguyên mẫu Byzantine. Thế kỷ XV, vì lý do an ninh, bức ảnh này được di chuyển từ Đảo Crete qua Roma tránh sự tiến quân của người Thổ. Bức ảnh này rất được sùng kính tại Roma, và nó cũng được biết đến nhiều như bức ảnh sùng kính cả ở bên ngoài Roma nữa.

Nhưng trên hết, phải nhắc tới các bức mô tả Pietà, tức hình ảnh Mẹ Thiên Chúa đang ôm xác Con trong lòng. Chúng ta vốn biết các mô tả này ngay từ thế kỷ XIV. Nhưng nổi tiếng nhất chính là bức điêu khắc của Michelangelo ở Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, Roma, một bức điêu khắc nổi tiếng khắp thế giới và được nhiều người chiêm ngưỡng nhất. Trong các mô tả này, Đức Maria được trình bầy như mẹ của mọi con người đau khổ, buồn sầu, bị bao vây tứ bề, và cần được an ủi. Những bức này giúp người xem đạo hạnh, nhất là man vàn các bà mẹ trong các tình huống tương tự, đồng nhất hóa với Đức Maria. Ít nổi tiếng hơn là các bức diễn tả Đức Maria ngất xỉu cũng trong bối cảnh này.[22] Chúng cho thấy Đức Maria đã tham dự ra sao vào việc Con mình rơi vào vô thức nhưng lại ý thức rõ sự toàn năng đầy thương xót của Thiên Chúa. Cả loại mô tả này cũng là những hình ảnh của ủi an đối với rất nhiều người bị áp đảo bởi sầu khổ hoặc bắt đầu hiểu ra, nhưng vẫn nhận được sức mạnh của đức tin.

Sau cùng, phải nhắc tới các mô tả về Mater Dolorosa (Mẹ Sầu Bi), vốn phát xuất từ đầu thời Baroque và cho thấy trái tim Đức Maria bị lưỡi đòng đâm thâu qua (Lc 2:35). Liên quan gần gũi với loại mô tả này là các tượng ảnh về bẩy vết thương của Đức Maria do bẩy lưỡi gươm đâm vào lòng ngài. Các mô tả này, đối với chúng ta ngày nay, thoạt nhìn, có vẻ kỳ kỳ vì thiếu tính thực tại, nhưng vẫn cho thấy Đức Mẹ đã chia sẻ ra sao cái chết thảm khốc của Con ngài.

Điều mà mỗi cách mô tả nói trên có liên hệ không những với Đức Maria như một nhân vật cá thể, mà còn liên hệ tới ngài như một loại hình (type) – một nguyên mẫu và mẫu mực – đem lại an tâm bảo đảm cho các Kitô hữu, sẽ trở nên rõ ràng hơn nữa trong các mô tả Đức Bà mặc Áo Choàng Che Chở. Bức Đức Bà Mặc Áo Choàng Che Chở ở Ravensburg đã được nổi tiếng một cách đặc biệt. Nó cho thấy trong mọi nghịch cảnh, nhất là trong các nguy hiểm của chiến tranh, chúng ta biết chúng ta được an lành dưới tà áo hiền mẫu đầy che chở của ngài. Theo một lề luật xưa ở Đức, nhờ được che chở dưới áo choàng của mẹ, các đứa con sinh ngoại hôn đều được công bố là những đứa con sinh bởi một kết hợp hôn phối (danh từ chuyên môn gọi là filii mantellati = con cái dưới tà áo mẹ). Như thế, các mô tả này cũng muốn nói: tất cả chúng ta, những kẻ sinh trong tội lỗi (xc. Tv 51:7), đều đã được làm cho trở thành con cái Thiên Chúa, nhờ lòng Chúa thương xót, theo nguyên mẫu và mẫu mực Đức Maria. Chủ đề quán xuyến áo choàng, một lần nữa, đã được tìm thấy trong bài thánh thi Thánh Mẫu thế kỷ thứ VII, Maria breittet den Mantel aus, trong đó, câu cuối cùng viết: “Ôi Mẹ của lòng Thương Xót, hãy phủ áo choàng của Mẹ lên chúng con”.[23] Tôi còn nhớ như in những đêm oanh tạc trong Thế Chiến Hai khi bài hát này mang một ý nghĩa hết sức thực tiễn đối với chúng tôi.

III. ĐỨC MARIA NHƯ NGUYÊN MẪU CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Nền thần học của Thánh Ambrosio đã phát biểu những điều đã trở thành hiển hiện trong nhiều kinh nguyện và mô tả bằng hình ảnh trên đây. Trong cuốn chú giải của ngài về Tin Mừng Luca, ngài mô tả Đức Maria như nguyên mẫu (loại hình) của Giáo Hội.[24] Công Đồng Vatican II đã minh nhiên tiếp nhận lời quả quyết này.[25] Với tư cách người thứ nhất trong số những người được cứu chuộc, Đức Maria là loại hình, nghĩa là nguyên mẫu của mọi người được cứu chuộc. Trong trật tự ơn thánh, Đức Maria là mẹ chúng ta.[26] Công Đồng Vatican II diễn tả xác tín này, một xác tín được man vàn Kitô hữu tin nhận, như sau: “với lòng bác ái mẫu thân, ngài chăm sóc anh chị em của Con mình, những người vẫn đang lữ hành trên trần gian vây quanh bởi nhiều nguy hiểm và khó khăn, cho tới lúc được dẫn vào quê hương diễm phúc của họ”.[27]

Suốt dòng lịch sử, Giáo Hội đã học hỏi để hiểu Đức Maria không những như một chứng tá và nguyên mẫu, mà còn như môt tạo vật đặc biệt của lòng Chúa thương xót. Đức Maria được cứu chuộc như mọi người được cứu chuộc khác, nhưng khác với họ, ngài không mắc bất cứ tì vết nào của tội lỗi ngay từ giây phút hiện hữu đầu tiên của ngài.[28] Vì lý do này, Giáo Hội Đông Phương mọi Đức Maria là Đấng Hoàn Toàn Thánh Thiện (Παναγία). Trong ngài và trong trọn cuộc sống ngài, lòng Chúa thương xót, vốn chống lại tội lỗi, trấn áp nó, và dành chỗ cho sự sống, đã vẻ vang chiến thắng. Như thế, ngài là dấu hiệu chỉ rằng quyền lực tội lỗi, từ căn bản, không thể làm hỏng kế hoạch cứu rỗi nguyên thủy của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Đồng thời, ngài là con tầu an toàn trong hồng thủy, số sót (remnant) thánh thiêng của nhân loại và cũng là bình minh của sáng thế mới. Vẻ đẹp nguyên thủy và vẻ đẹp tối hậu, hoàn hảo của tạo vật sáng ngời trong vẻ đẹp của ngài, một vẻ đẹp được ca ngợi trong văn chương và nghệ thuật tôn giáo mọi thế kỷ. Ngài là tạo vật hoàn hảo. “Nơi Đức Maria, có thể nói ta nhìn thấy kế hoạch nguyên thủy và, đồng thời, cả mục tiêu của Đấng Tạo Dựng nữa: đó là con người được cứu rỗi”.[29]

Những lời phát biểu như thế xem ra kỳ cục đối với lối suy nghĩ duy tục hóa, một lối suy nghĩ chỉ hiểu thực tại một cách còi cọc, nghèo nàn, vì đối với nó, nghịch lý thay, chẳng có gì thánh thiêng bằng thực tại phàm tục. Tuy nhiên, chỉ cần nhìn vào nền văn chương trong đó Đức Maria là chủ đề thường hằng cho tới tận ngày nay đủ giúp ta khỏi bị lạm dụng bởi thứ ấn tượng này. Người ta có thể nghĩ tới Gretchen trong Faust của Goethe: “Ôi hãy cúi xuống, đấng đầy sầu bi, xin cúi mặt nhân từ xuống nỗi khốn khổ của con!”. Chủ đề này lại tái xuất hiện thời Lãng Mạn, trong các công trình của Brentano và Eichendorff. Hӧlderlin và Rilke cũng đã sử dụng các tư liệu truyền thống này, dù không hẳn theo nghĩa Giáo Hội hay thiêng liêng, nhưng, dù sao, họ vẫn cho thấy Đức Maria tiếp tục gây hiệu quả ra sao như một hình ảnh lý tưởng, gương mẫu hiển dung của nhân loại. Các yếu tố truyền thống không những được tiếp nối nơi Hymnen an die Kirche của Gertrud von Le Fort, mà còn được làm cho hiện diện trong ngôn ngữ thi ca mạnh mẽ nữa.[30]

Việc nói tới Đức Maria như tấm gương cụ thể và như thể hiện đặc biệt của lòng Chúa thương xót vẫn chưa kết thúc tính sinh ích của nó, ngay trong thế giới hiện đại. Việc nói tới này còn cho chúng ta ngày nay thấy rằng sứ điệp Kitô Giáo về lòng thương xót đã mặc lấy hình thức trần thế và nhân bản cụ thể, để chúng ta nắm được sức mạnh biến đổi của lòng Chúa thương xót không chỉ bằng đầu óc mà còn bằng trái tim nữa.

Trong mọi tạo vật, Đức Maria hiện thân cho tin mừng về lòng Chúa thương xót một cách tinh ròng và đẹp đẽ nhất. Ngài là tạo vật tinh ròng nhất mô tả lòng thương xót của Thiên Chúa và là tấm gương phản chiếu chính tâm điểm và bản tóm lược của Tin Mừng. Ngài rạng rỡ chiếu sáng tính tương đắc hoàn toàn của lòng Chúa thương xót và biểu lộ sự sáng láng và vẻ đẹp biến đổi mọi sự vốn được ban cho thế giới từ lòng thương xót nhân từ của Thiên Chúa. Chính lúc phải đối diện với những điều kiện sống thường rất khắc nghiệt của thời nay và lối hiểu thường nhàm chán và vô vị về cuộc sống, Đức Maria quả là một nguyên mẫu và mẫu mực sáng ngời của nền văn hóa thương xót mới. Ngài là như thế đối với cuộc sống của mọi Kitô hữu, đối với Giáo Hội và việc canh tân của Giáo Hội dựa trên ý niệm thương xót, và, cuối cùng, đối với việc xây dựng nền văn hóa thương xót trong xã hội chúng ta. Do đó, ta có thể mô tả Đức Maria một cách rất chính xác như là nguyên mẫu và mẫu gương của nền văn hóa và linh đạo thương xót Kitô Giáo đổi mới.

Giáo Hội Công Giáo còn đi thêm một bước xa hơn nữa. Đức Maria không những là nguyên mẫu và mẫu gương, ngài còn là đấng bào chữa đầy thương xót của Giáo Hội và của các Kitô hữu nữa. Do đó, kể từ thế kỷ XV, lời xin sau đây đã được thêm vào Kinh Kính Mừng, vốn là lời kinh Thánh Mẫu nổi tiếng nhất và phổ biến nhất, bắt nguồn từ chính lời chào kính của thiên thần và của Thánh Nữ Elisabeth (Lc 1:28,42): “Cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”.[31] Cầu nguyện cách này cũng không xa lạ gì đối với Martin Luther lúc còn trẻ. Trong lời giải thích của ông về Kinh Ngợi Khen (Magnificat), ông thấy trong đó có niềm hy vọng vào hành động của Thiên Chúa qua sư trung gian của một tạo vật.[32] Do đó, ông kết luận lời giải thích của mình như sau: “Ước chi Chúa Kitô ban cho chúng ta điều này nhờ lời chuyển cầu và vì Mẹ Maria thân yêu của Người”.[33]

Các Kitô hữu Tin Lành ngày nay thường lo lắng điều này: khi chúng ta quá trông cậy vào lời chuyển cầu, tính duy nhất của vai trò làm đấng trung gian của Chúa Kitô sẽ gặp nguy hiểm. Đây là một hiểu lầm hiển nhiên. Dĩ nhiên, chúng ta không đặt Đức Maria ngang hàng với Chúa Kitô hay đặt ngài cạnh tranh với Người. Thực vậy, Đức Maria sống thực lòng Chúa thương xót một cách hoàn toàn và bất phân chia. Ngài hướng về lòng Chúa thương xót được mạc khải trong Chúa Giêsu Kitô và làm chứng cho nó. Vậy thì Giáo Hội nên dành cho Đức Maria một vai trò độc lập song song với Chúa Kitô hay một vai trò bổ túc cho vai trò của Chúa Kitô? Đức Maria không lấy khỏi Chúa Kitô bất cứ điều gì mà cũng không thêm cho Người bất cứ điều gì, vì Người là đấng trung gian cứu rỗi duy nhất.[34] Đúng hơn, trong lời chuyển cầu của ngài, Đức Maria chỉ hiện thực hóa, theo cách đặc biệt và độc đáo, việc làm đại biểu bênh vực cho người khác, một điều mà giả thiết bất cứ Kitô hữu nào cũng phải có như một đặc điểm để phân biệt họ với người khác. Nếu muốn phát biểu ý nghĩa của điều này bằng thuật ngữ Kinh Viện, thì ta có thể nói: Đức Maria sống và làm việc hoàn toàn nhờ sức mạnh từ đệ nhất nguyên nhân của sự cứu rỗi; nhờ sức mạnh và tùy thuộc vào đệ nhất nguyên nhân này, ngài tham dự vào đó như một đệ nhị nguyên nhân.

Cho nên, chúng ta không thờ phượng Đức Maria. Thờ phượng chỉ dành cho và độc hữu dành cho Thiên Chúa mà thôi. Nhưng chúng ta tôn kính Đức Maria trên mọi loài thụ tạo khác; tôn kính ngài như thụ tạo hoàn hảo nhất của Thiên Chúa và như một dụng cụ trong tay Thiên Chúa.[35] Vì Thiên Chúa là vị Thiên Chúa của những con người nhân bản và Người muốn thể hiện việc cứu rỗi của Người cho họ qua các con người nhân bản. Điều này cũng là một dấu hiệu chỉ lòng nhân hậu và thương xót của Người, vốn là những điều ngời sáng trong Đức Maria, ngời sáng một cách điển hình và độc đáo.

Như thế, Đức Maria quả đã tóm lược nơi ngài các mầu nhiệm vĩ đại nhất của đức tin và rạng chiếu chúng ra bên ngoài.[36] Nơi ngài, sáng lên hình ảnh con người mới, được cứu chuộc và hòa giải và thế giới mới, đã biến đổi, một hình ảnh làm say sưa chúng ta trong vẻ đẹp không tài nào mô phỏng được của nó và nên kéo chúng ta ra khỏi mọi bần cùng uể oải. Đức Maria nói với chúng ta và tỏ cho chúng ta thấy: tin mừng về lòng thương xót của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô là điều tốt đẹp nhất từng được ngỏ với chúng ta xưa nay và là điều tốt đẹp nhất chúng ta từng được nghe xưa nay. Đồng thời, nó là điều đẹp đẽ nhất vì nó có sức biến đổi chúng ta và thế giới chúng ta nhờ vinh quang Thiên Chúa, vốn được lòng thương xót nhân hậu của Người biểu lộ. Lòng thương xót này là hồng ân của Thiên Chúa và, đồng thời, là trách vụ của Kitô hữu chúng ta. Chúng ta giả thiết phải thi hành lòng thương xót. Chúng ta nên sống lòng thương xót bằng lời nói và việc làm và làm chứng cho nó. Nhờ cách này, thế giới thường đen tối và lạnh lẽo của chúng ta phần nào trở nên ấm áp hơn, nhẹ nhàng hơn, đáng yêu hơn và đáng sống hơn vì tia sáng thương xót. Thương xót là phản ảnh vinh quang Thiên Chúa trong thế giới này và là bản tóm lược sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô, vốn được ban cho ta như một hồng phúc, một hồng phúc mà ta phải chuyển ban cho người khác.

(End)

 

 

 


[1] Muốn biết cuộc thảo luận chi tiết, gồm cả thư tịch, xin xem: Walter Kasper, Katholische Kirche: Wesen-Wirklichkeit-Sendung (Freiburg i. Br.: Herder, 2011), pp. 215-222.

[2] Walter Tappolet và Albert Ebneter, Das Marienlob der Reformatoren: Martin Luther, Johannes Calvin, Huldrych Zwingli, Heinrich Bullinger (Tübingen: Katzman Verlag, 1962); Heinrich Petri, “Maria in der Sicht evangelischer Christen”, trong Handbuch der Marienkunde, Bd.1: Theologische Grundlegung-geistliches Leben, do Wolfgang Beinert và Heinrich Petri (Regensburg: Pustet, 1996), pp. 382-419; Thomas A. Seidel và Ulrich Schacht hiệu đính, Maria Evangelisch (Leipzig: Evangelische Verlagsanstalt, 2011).

[3] Xem: Chương IV: Sứ điệp về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa

[4] Martin Luther giải thích điểm này một cách ấn tượng trong bài chú giải Kinh Magnificat của ông từ năm 1521. Xem: Luther’s Works do Jaroslav Pelikan và Helmut T. Lehmann hiệu đính, 55 cuốn (Philadelphia: Muhlenberg Press 1955-86), pp. 21, 295-355.

[5] Heinz Schürmann, Das Lukasevangelium (Freiburg i. Br.: Herder, 1969), pp. 58.

[6] Thánh Thomas d’Aquin, Summa Theologiae, pt.III q.30, a.1.

[7] Thánh Iréne thành Lyon, Chống Lạc Giáo, III, 22, 4.

[8] Gotteslob, số 594.

[9] Về quan điểm này trong thần học duy nữ, xem: R. Radlbeck-Ossmann, “Maria in der Feministischen Theologie”, trong Beinert và Petri, Handbuch der Marienkunde, pp. 1, 438-441. Tiểu luận này cho thấy có những cách tiếp cận khác và tích cực hơn vốn lấy việc Đức Maria là chị em với chúng ta trong đức tin làm khởi điểm, nhưng về đề tài này, người ta phải khai triển từ chứng từ của Thánh Kinh và phải nói đến Đức Maria như Mẹ Thiên Chúa và như mẹ chúng ta. Xem các trang 461-465 của tác phẩm này.

[10] Điều này không phải chỉ là một lối giải thích thời Trung Cổ, theo Rudof Schnackenburg, Das Johannesevangelium (Freiburg i.Br.: Herder, 1975), pp. 326. Đây là lối giải thích của một số nhà chú giải gần đây hơn: Ulrich Wilckens, Das Evangelium nach Johannes (Gӧttingen: Vandenhoeck & Ruprecht, 1998), pp. 296tt.

[11] Heinz Schümann, “Jesu letzte Weisung”, trong Ursprung und Gestalt: Erӧrterungen und Besinnungen zum Neue Testament (Düsseldorf: Patmos Verlag, 1970), pp. 13-28; Schnackenburg, Das Johannesevangelium, pp. 323-325.

[12] Thánh Augustin, In evangelium Ioannis, 119, 3.

[13] Heinrich Denzinger, Enchiridion symbolorum, definitionum et declarationum de rebus fidei et morum (Freiburg i.B.: Herder, 1963), pp. 250tt, 252tt.

[14] Xem: S, de Fiores, “Maria in der Geschichte von Theologie und Frӧmmingkeit”, trong Handbuch der Marienkunde, do Beinert và Petri hiệu đính, pp. 1, 99-266.

[15] Xem: Christoph von Schӧnborn, We Have Found Mercy, bản dịch của Michael J. Miller (San Francisco: Ignatius, 2012), pp. 119.

[16] Gotteslob, số 596, 578.

[17] Nổi tiếng là bức tranh trong nhà thờ hành hương St. Peter am Perlach ở Augsburg (1700).

[18] Muốn biết một số điển hình vui tươi thuộc loại này, xin xem: M.-E. Lüdde, “Unter dem Mantel ihrer Barmherzigkeit”, trong Seidel và Schacht, Amria, Evangelisch, pp. 153.

[19] Ghi chú của bản tiếng Anh: Gnadenbilder là một bức ảnh hay một bức tượng Đức Maria mà trước mặt nó, tín hữu cầu nguyện, xin ngài cầu bầu để được ơn thánh hay một ơn phúc nào đó từ Con của ngài. Nhiều việc chữa chạy và lành bệnh đã được ghi lại từ thời Trung Cổ do việc thực hành lòng sùng kính đạo đức này.

[20] Xem khái quát lịch sử trong K. Kolb, “Typologie der Gnadenbilder”, trong Handbuch der Marienkunde, Bd. 2: Gestaltetes Zeugnis-Gläubigen Lobpreis, do Wolfgang Beinert và Heinrich Petri hiệu đính (Regensburg: Pustet, 1997), pp. 449-482.

[21] Ghi chú của bản triếng Anh: Nhà Thờ Đồng Chính Tòa là một nhà thờ chính tòa có cùng chức năng là tòa của giám mục như một nhà thờ chính tòa khác. Nhà thờ Thánh Eberhard ở Stuttgart và nhà thờ Thánh Martin ở Rottenbrug đều là các nhà thờ chính tòa của Giáo Phận Rottenbrug-Stuttgart thuộc Bang Baten-Württemberg, Đức. Đức Hồng Y Kasper là giám mục của giáo phận này từ năm 1989 tới năm 1999.

[22] Việc mô tả ngài như thế có thể tìm thấy ở nhà thờ hành hương, Weggental bei Rottenburg am Neckar.

[23] Gotteslob, số 595.

[24] Thánh Ambrosio, Chú Giải Tin Mừng Luca, II, 7.

[25] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium, số 63.

[26] Ibid., số 61.

[27] Ibid., số 62, từng được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trích dẫn trong Thông điệp Dives in Misericordia (1980), số 9.

[28] Denzinger, Enchiridion, pp. 280. Xem: Gerhard Lohfink và Ludwig Weimer, Maria-Nicht ohne Israel: Eine neue Sicht der lehre von der Unbefleckten Empfängnis (Freiburg i. Br.: Herder, 2008).

[29] Schӧnborn, We Have Found Mercy, pp. 125.

[30] Ulrich Schacht, “Meerstern, wir dich grüẞen…’ Eine literarisch-theologische Exkursion in die duetsche Marien-Dichtung”, trong Seidel và Schacht, Maria, Evangelisch, pp. 117-136.

[31] A. Heinz, “Ave Maria”, Lexikon für Theologie und Kirche, ấn bản 3, do Walter Kasper và nhiều người khác chủ biên (Freiburg: Herder, 1993-2001), pp. 1, 1306tt.

[32] Luther, “The Magnificat”, pp. 329.

[33] Ibid., pp. 355.

[34] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium, số 62.

[35] Ibid., số 66.

[36] Ibid., số 65.